Kể từ khi nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã liên tục tấn công trật tự thế giới do Mỹ thiết lập sau Thế chiến II. Ông công khai thách thức chủ quyền của các đồng minh và đối tác bằng những tuyên bố gây sốc như đe dọa mua Greenland, sáp nhập Canada hay chiếm Kênh đào Panama.
Chiến tranh thương mại toàn cầu do ông phát động được thiết kế nhằm mang lại lợi ích tối đa cho Mỹ, bất chấp thiệt hại nặng nề mà nó gây ra cho các đối tác thương mại khác.
Ông đã rút Mỹ khỏi Hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), những quyết định gây bất ngờ và chỉ trích dữ dội trên toàn cầu.
Sự thay đổi trong chính sách đối ngoại Mỹ
Việc giải thể Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đánh dấu sự từ bỏ những cam kết lâu đời, xuyên suốt nhiều chính quyền, về phát triển quốc tế. Đặc biệt, cách ông xử lý vấn đề Ukraine – nỗ lực ép buộc Ukraine vào một thỏa thuận hòa bình với Nga thay vì sử dụng sức mạnh của Mỹ để gây áp lực lên Nga – đã gây thất vọng lớn, làm bẽ mặt một quốc gia yếu thế hơn và đồng thời làm hài lòng kẻ xâm lược.
Hình ảnh minh họa liên minh quân sự NATO.
Quan điểm của Trump cho rằng sức mạnh quyết định lẽ phải được thể hiện rõ trong bài đăng trên Truth Social tháng 4: “QUY TẮC VÀNG CỦA ĐÀM PHÁN VÀ THÀNH CÔNG: KẺ NÀO CÓ VÀNG THÌ KẺ ĐÓ ĐẶT RA LUẬT LỆ”.
Trật tự thế giới và các thể chế quốc tế do Mỹ xây dựng sau Thế chiến II được thiết kế nhằm chống lại tư tưởng này, bảo đảm rằng kẻ mạnh không thể tùy tiện áp đặt ý chí lên kẻ yếu.
Tuy nhiên, Trump dường như không quan tâm đến những lý tưởng cao cả đó. Ông đã chứng minh sự hoài nghi về việc Mỹ thực sự là một cường quốc vị tha và lý tưởng như tuyên bố.
Niềm tin lung lay và sự lựa chọn khó khăn
Đối với những ai vẫn tin tưởng vào một nước Mỹ có nguyên tắc và hào phóng, chính quyền Trump là một cú sốc. Sự coi thường luật pháp, cả trong và ngoài nước, sự bắt nạt, việc hủy bỏ các thỏa thuận và hiệp ước, các mối đe dọa nhắm vào đồng minh và việc lấy lòng các chế độ độc tài là những thực tế không thể chối cãi, dù nghe có vẻ khó tin.
Một số người tìm cách lý giải tích cực hơn, cho rằng Trump đang thực hiện một chiến lược sâu xa và những hành động cực đoan chỉ là một phần của kế hoạch tổng thể. Số khác vẫn hy vọng vào một sự thay đổi bất ngờ nào đó sẽ giúp mọi việc quay trở lại đúng hướng.
Nhưng hy vọng trong trường hợp này là một sự an ủi nguy hiểm. Trump đã trở thành hiện thực mới ở Washington. Ít nhất là cho đến cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo, không có dấu hiệu nào cho thấy tình hình sẽ đảo ngược.
Điều này không có nghĩa là các đồng minh của Mỹ nên đầu hàng trước sự hăm dọa của Trump. Họ, cùng nhau, hoàn toàn có thể tạo ra ảnh hưởng đáng kể và đối phó với sự hỗn loạn do chính quyền Mỹ gây ra. Các quốc gia chia sẻ các giá trị mà Mỹ từng đại diện cần liên kết để bảo vệ những thành tựu tốt đẹp nhất trong trật tự quốc tế mà Trump đang tìm cách phá hủy. Như Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã phát biểu, các đồng minh nên xây dựng một liên minh “sẽ không bị bắt nạt”.
Tự lực cánh sinh: Con đường duy nhất?
Trong kỷ nguyên "Nước Mỹ trên hết", Mỹ không còn là, và không tự nhận mình là, một đối tác an ninh đáng tin cậy như trước đây. Các đồng minh trên toàn thế giới đã nhận ra rằng họ phải tự nỗ lực nhiều hơn để bảo vệ mình. Điều này bao gồm việc mua sắm các hệ thống vũ khí hiện đại hơn, tăng cường dự trữ đạn dược và trang thiết bị, cũng như tuyển dụng thêm nhân sự.
Song song với đó, họ cần tăng cường "quyền tự chủ tối cao", đặc biệt là khả năng tác chiến độc lập mà không cần sự đồng thuận hay hợp tác của Mỹ. Việc phát triển và củng cố các liên minh với các đối tác cùng chí hướng ngoài Mỹ cũng là một hướng đi cần thiết.
Những động thái này không phải là sự phủ nhận Mỹ, mà là hành động phù hợp với chính những gì chính quyền Trump đang thúc đẩy các đồng minh làm.
Phó Tổng thống JD Vance đã ca ngợi nhà lãnh đạo Pháp Charles de Gaulle, người đã bảo đảm chủ quyền hoàn toàn cho Pháp về khả năng quân sự, kể cả kho vũ khí hạt nhân, bất chấp sự phản đối của Washington những năm 1960. Như Vance nói, de Gaulle hiểu rằng "việc châu Âu mãi mãi phụ thuộc vào an ninh của Mỹ không có lợi cho cả châu Âu và Mỹ".
Thông điệp từ Washington đã thay đổi rõ rệt. Mặc dù Trump không phải là tổng thống đầu tiên yêu cầu các đồng minh đóng góp nhiều hơn cho an ninh chung, nhưng ông dường như đang ngầm nói rằng họ nên chi tiêu nhiều hơn bởi vì họ có thể sẽ phải tự lo liệu.
Thách thức từ Nga và sự độc lập quốc phòng
Hãy xem xét cách Trump đối xử với Ukraine. Trong những tháng đầu nhiệm kỳ thứ hai, ông dường như đã chuyển sang ủng hộ Nga và ép buộc Ukraine chấp nhận một thỏa thuận hòa bình theo điều khoản do Putin đặt ra. Thất bại của chiến lược này đã đặt ra câu hỏi về khả năng và ý chí của Mỹ trong việc bảo vệ đồng minh.
Ngoài Ukraine, các nước châu Âu phải đối mặt với mối đe dọa cấp bách từ Nga. Các thành viên châu Âu của NATO hoàn toàn có tiềm lực kinh tế để sánh ngang, thậm chí vượt trội hơn Nga nếu họ lựa chọn. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk đã đặt ra câu hỏi: "Tại sao 500 triệu người châu Âu cần 330 triệu người Mỹ để bảo vệ họ trước 140 triệu người Nga?".
NATO và các đồng minh Mỹ, bao gồm Úc, đều nhận thức được sự cần thiết phải tăng chi tiêu quốc phòng. Tuy nhiên, Washington và các đồng minh có quan điểm khác nhau về cách sử dụng nguồn lực này. Mỹ muốn các đồng minh mua thêm vũ khí Mỹ, nhưng các đồng minh lo ngại rằng điều này sẽ không mang lại sự độc lập thực sự, mà chỉ làm tăng sự phụ thuộc vào Mỹ.
Giải pháp lâu dài là sở hữu khả năng tự vệ một cách độc lập – lý tưởng nhất là tự sản xuất trong nước, nhưng tối thiểu là có khả năng triển khai và vận hành mà không cần sự đồng ý của Mỹ. Hiện tại, điều này là không thể. Ví dụ, máy bay F-35 phụ thuộc vào phần mềm và phụ tùng của Mỹ đến mức khó có thể vận hành lâu dài mà không có sự đồng ý của Washington.
Sự phụ thuộc này, phổ biến trong hầu hết các hệ thống vũ khí hiện đại, đã bị các đồng minh của Mỹ phớt lờ trong một thời gian dài. Họ tin rằng sẽ không bao giờ phải chiến đấu một mình, do đó sự phụ thuộc vào một nước Mỹ thờ ơ chỉ là một mối lo lý thuyết.
Tuy nhiên, với yêu cầu từ Nhà Trắng về việc các đồng minh phải tự vệ, tình hình đã thay đổi. Không có gì đáng ngạc nhiên khi kế hoạch mua sắm quốc phòng 150 tỷ euro của EU phần lớn loại trừ các công ty Mỹ. Bồ Đào Nha tuyên bố không còn kế hoạch mua F-35, và Canada đang xem xét lại kế hoạch mua 88 chiếc F-35.
Thách thức của châu Âu không chỉ là tìm nguồn tài chính cho việc tái vũ trang mà còn là vượt qua sự cạnh tranh quốc gia để thống nhất tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp quốc phòng, tương tự như sự hợp tác giữa Pháp và Đức trong việc tạo ra Airbus năm 1970.
Ukraine là một ví dụ khác, nơi ngành công nghiệp quốc phòng trong nước đã thể hiện khả năng đổi mới và hiệu quả đáng kinh ngạc, như được chứng minh qua các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái vào các căn cứ không quân Nga.
Chủ quyền và quyền tự chủ trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
Ở châu Âu, các đồng minh của Mỹ có vị trí địa lý gần nhau và có mối quan hệ chiến lược và kinh tế mạnh mẽ. Tình hình ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương khác biệt hơn nhiều. Trung Quốc mạnh hơn nhiều so với các nước láng giềng châu Á, trong khi Trump, dù khiến châu Âu lo ngại, vẫn chưa cho thấy Mỹ sẽ từ bỏ các đồng minh ở châu Á.
Điểm nóng là Đài Loan, nơi các thông điệp từ chính quyền Trump hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Bản thân Trump cho rằng Đài Loan khó phòng thủ và chỉ trích ngành công nghiệp bán dẫn của đảo quốc này, tuyên bố Đài Loan "đã đánh cắp ngành chip" từ Mỹ và nên trả tiền cho sự bảo vệ của Mỹ.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth lại tuyên bố Trump đã nói rõ rằng "Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ không dám xâm lược Đài Loan dưới thời ông" và Mỹ sẽ làm mọi cách để chi phí của một cuộc xâm lược trở nên quá cao đối với Trung Quốc.
Sự tự tin này không được các sự kiện thực tế chứng minh. Các cuộc tập trận của Trung Quốc quanh Đài Loan ngày càng giống như các cuộc diễn tập xâm lược.
Hegseth thừa nhận một cuộc tấn công có thể sắp xảy ra. Chính trị Đài Loan không ổn định, thiếu sự đồng thuận về việc tăng chi tiêu quốc phòng, và có nhiều biện pháp phi quân sự khác có thể giúp ông Tập Cận Bình giành chiến thắng mà không cần nổ súng.
Đài Loan quan trọng hơn với Bắc Kinh hơn so với Washington. Nếu Ukraine không phải là cuộc chiến của Trump (như ông thường nói), ông có thể sẽ không mạo hiểm chiến tranh với Trung Quốc vì Đài Loan – ngay cả chiến tranh thông thường cũng sẽ gây thiệt hại nặng nề cho cả hai bên. Trung Quốc, với năng lực đóng tàu vượt trội, có thể bù đắp tổn thất nhanh hơn Mỹ rất nhiều.
Việc Trung Quốc chiếm Đài Loan sẽ khiến các đồng minh Mỹ mất lòng tin vào chiếc ô an ninh của Mỹ và khả năng răn đe của Mỹ, vốn không chỉ dựa trên sức mạnh quân sự mà còn cả ý chí chính trị.
Nhật Bản và Hàn Quốc có tiềm lực kinh tế để tăng cường khả năng phòng thủ. Hàn Quốc đã là một nhà xuất khẩu vũ khí lớn. Cả hai nước đều có các căn cứ quân sự của Mỹ. Nhưng nếu mất lòng tin vào ý chí chiến đấu của Washington ở châu Á, các căn cứ này có thể trở thành gánh nặng, khiến cả hai nước khó quản lý quốc phòng và ngoại giao độc lập.
Các nước Đông Nam Á quá đa dạng về định hướng địa chính trị để hợp tác về quốc phòng. Một số liên kết chặt chẽ với Trung Quốc, trong khi những nước khác phải cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ. Tất cả đều có thể rơi vào phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc nếu Mỹ rút khỏi khu vực.
Philippines, một đồng minh hiệp ước của Mỹ, đang phải đối mặt với các cuộc xâm nhập ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ chỉ phản đối việc Trung Quốc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo, chứ không can thiệp vào các cuộc đối đầu trực tiếp giữa tàu Trung Quốc và Philippines. Không có sự hỗ trợ mạnh mẽ của Mỹ, Philippines chắc chắn sẽ phải đáp ứng các yêu cầu của Trung Quốc.
Úc đang ngày càng phụ thuộc vào Mỹ trong khi Mỹ trở nên ít đáng tin cậy hơn. Điều này rõ ràng nhất trong việc thành lập AUKUS, một liên minh an ninh giữa Úc, Anh và Mỹ năm 2021. Úc đã hủy bỏ hợp đồng mua tàu ngầm diesel-điện từ Pháp để đổi lấy 8 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân nhưng được trang bị vũ khí thông thường do Anh đóng. Tuy nhiên, những tàu này sẽ không sẵn sàng cho đến những năm 2040. Để lấp đầy khoảng trống, Mỹ sẽ bán cho Úc 3-5 tàu ngầm lớp Virginia vào khoảng năm 2032. Tuy nhiên, luật pháp Mỹ quy định tàu ngầm không thể được bán trừ khi tổng thống chứng nhận việc bán này không làm suy giảm năng lực dưới nước của Mỹ. Với việc Hải quân Mỹ thiếu tàu ngầm, có vẻ như Úc sẽ không bao giờ có được tàu ngầm lớp Virginia trong kỷ nguyên "Nước Mỹ trên hết".
Bộ trưởng ngoại giao Pháp đã nói: "Úc đã hy sinh chủ quyền vì an ninh. Rất có thể sẽ mất cả hai". AUKUS là bài học cảnh báo cho các đồng minh khác. Chủ quyền và quyền tự chủ quan trọng hơn bao giờ hết.
Chiến tranh thương mại: Một cuộc chơi nguy hiểm
Trong lĩnh vực thương mại, Trump cũng tìm cách phá vỡ các mối quan hệ đối tác và liên minh hiện có. Chính sách thuế quan gây hấn nhằm khẳng định quyền lực của Mỹ và buộc các nước khác nhượng bộ, tất cả đều phải trả giá bằng hệ thống thương mại mà Mỹ đã xây dựng. Trump tuyên bố các quốc gia khác đang "gọi điện cho chúng tôi, nịnh nọt tôi... Họ đang thèm khát đạt được một thỏa thuận".
Chương trình nghị sự của Trump là sử dụng thuế quan để buộc các nhà nhập khẩu chuyển sản xuất sang Mỹ, một cách tiếp cận thách thức các nguyên tắc cơ bản của kinh tế học. Ví dụ, Canada, nơi Mỹ nhập khẩu khoảng 40% nhôm, có lợi thế so sánh tự nhiên nhờ nguồn thủy điện dồi dào. Mức thuế 50% mà Trump áp dụng đối với nhôm làm tăng giá nhôm trong nước, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất nhôm Mỹ và gây hại cho người tiêu dùng và các nhà sản xuất khác.
Trump không tin vào lợi thế so sánh. Đối với ông, thâm hụt thương mại là dấu hiệu của kẻ thua cuộc, còn thặng dư là dấu hiệu của kẻ chiến thắng. Ông đã từng phàn nàn về thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc và hỏi liệu sẽ thế nào nếu ông cấm tất cả hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Câu trả lời là một cuộc suy thoái toàn cầu.
Các quốc gia tin vào tự do thương mại cần hợp tác để thúc đẩy các thỏa thuận thương mại mới mà không có sự tham gia của Mỹ. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), kế thừa của TPP, là một ví dụ. Trump đã rút khỏi TPP, nhưng CPTPP đã được các nước thành viên khác ký kết, chứng tỏ khả năng thiết lập quy tắc toàn cầu mà không cần Mỹ.
Các đồng minh của Mỹ cần tìm kiếm giải pháp thay thế cho thị trường Mỹ. Châu Âu đang tìm cách thiết lập nhiều mối quan hệ thương mại tự do hơn với các nước khác. Nhật Bản và Hàn Quốc đang tìm kiếm quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc, nhằm tạo ra "một môi trường thương mại và đầu tư có thể dự đoán được" giữa bối cảnh biến động do Washington gây ra.
Một thế giới tăm tối hơn?
Trung Quốc được hưởng lợi từ những bất ổn trong chính sách đối ngoại của Trump. Trung Quốc luôn khó chịu với sự thống trị của Mỹ và đồng đô la trong hệ thống thương mại và tài chính toàn cầu. Vị thế này đang bị lung lay không phải do Trung Quốc mà do hành động của Trump. Sự hỗn loạn trên thị trường trái phiếu sau các thông báo thuế quan của Trump cho thấy niềm tin vào sự ổn định và sức mạnh của Mỹ đang giảm sút.
Trump đã đối xử với Úc, một đồng minh thân thiết, bằng cách áp đặt thuế quan lên hàng hóa Úc, dù Mỹ có thặng dư thương mại lớn với Úc. Hành động này khiến Canberra khó lòng tuân thủ đường lối của Washington, khi một phần ba kim ngạch xuất khẩu của Úc đi sang Trung Quốc.
Mục tiêu của Trump là tái công nghiệp hóa Mỹ, đưa các nhà máy trở lại từ Trung Quốc, châu Âu và Đông Nam Á. Ông muốn khẳng định quyền bá chủ của Mỹ ở Tây Bán cầu trong khi thu hẹp sự tham gia của Mỹ vào phần còn lại của thế giới. Người dân Mỹ sẽ phải quyết định liệu những mục tiêu này có khả thi và đáng giá hay không, nhưng các đồng minh của Mỹ đã phải đưa ra quyết định của mình.
Niềm tin của các đồng minh vào Mỹ chủ yếu dựa trên hy vọng hơn là kỳ vọng. Niềm tin đó đang rạn nứt. Trump mang đến một kiểu niềm tin khác: sự chắc chắn rằng Washington sẽ hành động tàn nhẫn vì lợi ích riêng và dùng sức mạnh để giành lấy những thỏa thuận tốt nhất.
tác giả: Malcolm Turnbull, đăng trên Foreign Affairs
Thu Phương - © Báo TIN TỨC VIỆT ĐỨC biên dịch
© 2025 | Tạp chí NƯỚC ĐỨC